Đón giao thừa ở Paris, nhớ giao thừa Sài Gòn

Lượt xem: 7047
7/2/2024 9:00 - Điểm đến
Tác giả: Kiến trúc & Đời sống - THANH LAN

Có lẽ đến thời điểm này, đã có nhiều người trong chúng ta ít nhất một lần đón tết ở một đất nước không phải là Việt Nam. Không biết ai có tâm trạng giống tôi không, có lần ăn tết xa nhà và đã nghĩ “không đâu vui bằng tết ở nhà mình”. Nhà mình là mái ấm tôi ở, là cái xóm nhỏ cách chùa Vĩnh Nghiêm một cây cầu. Nhà mình là mảnh đất Sài Gòn - nơi mấy chị em tôi sinh ra và lớn lên.

 

 

 

 
Lần đầu tiên được xuất ngoại là vào năm 2006. Khi đó các em bên Pháp muốn đón má tôi qua chơi cho biết cuộc sống của con cái.  Tính tới tính lui, chúng tôi quyết định đi vào dịp cuối năm vì vừa là Giáng sinh, tết Tây, vừa có thể thấy tuyết rơi - nếu may mắn và xem bên đó ăn tết như thế nào. 
Có mặt ở Paris sáng sớm ngày 23.12. Pháp, đất nước đã ảnh hưởng đến quyết định chọn lớp Pháp văn (tôi đậu vào lớp 6 năm 1973) giờ đã đây rồi. Nào tháp Eiffel, Nhà thờ Đức Bà, Khải Hoàn Môn, bảo tàng Louvre, đồi Montmartre, vườn Tuileries, quảng trường Concorde, các cây cầu có ghế ngồi cho khách bộ hành dọc sông Seine... Tôi đã nhiều lần một mình trở lại những nơi đó như muốn thu hết cái đẹp, cái nên thơ mà các thi sĩ, nhạc sĩ, nhà văn, đã miêu tả qua từng bài hát, từng trang sách, từng nét vẽ… Một mơ ước nữa cũng thành hiện thực, vào một buổi sáng khi trở lại đồi Montmartre, tuyết bắt đầu rơi. Lần đầu tôi được thấy tuyết rơi trên đầu, tuyết dưới chân mình, tuyết “đậu” trên tay, quả là niềm vui sướng không bút mực nào tả hết.
Rồi cũng đến những ngày giáp tết. Hôm đưa Ông Táo về trời và ngày 29 và 30 tháng Chạp, chúng tôi dạo chợ tết ở khu phố Tàu, quận 13. Không khí mua sắm ở đây cũng đông vui, người Việt mình gặp nhau cũng í ới. Đến trưa 30, má tôi đã kỳ công buộc những miếng thịt heo được cắt to, cứ một miếng ba rọi và một miếng thịt đùi chung với nhau bằng sợi dây chuối khô (mang từ Việt Nam qua) để làm món thịt kho trứng. Cũng dây chuối khô đó, má tôi lại lần lượt buộc miếng thịt gà và xương heo - cũng được chặt to cho món hầm măng khô. Đây là hai món tết ăn ý nhất mà má tôi học được từ bà ngoại. Hai chị em gái tôi thì sắp đặt dĩa trái cây, chiếc bánh chưng, hộp mứt kế bên bình hoa mai (giả) ra cái bàn lớn ở phòng khách. Đứa em trai để thêm chai champagne kế bên cười nói: “Năm nay có má qua, sáng mùng một mình khui mừng năm mới cho xôm tụ”. Lại nghe đứa em trai kể với đám cháu - cũng toàn con trai rằng: “Sau nhiều năm gia đình mới có một cái tết xum họp đầy đủ và đó là năm cuối Sài Gòn được đốt pháo. Chiều 30 ông ngoại và cậu chở về nhà một xe ba gác pháo, mỗi dây dài 2 mét. Tới giao thừa đốt hết dây này đến dây khác”. Kể đến đây giọng nó chùng xuống: “Năm đó vui quá. Khi ấy Sài Gòn còn chưa đông dân và cũng chưa khá giả mấy, chứ giờ mà còn đốt pháo chắc có nhiều người phải vô bệnh viện”. Mấy đứa cháu nhỏ xúm xít chung quanh, hỏi han đủ thứ, nài nỉ cậu kể thêm chuyện tết ở Sài Gòn. Bấy nhiêu cũng tạo được một chút không khí tết rộn ràng như ở quê nhà.
 
 
Gần giao thừa, số người ngồi chơi cứ rụng dần. Đến 12 giờ chỉ còn mỗi mình tôi lặng lẽ mở cửa ra sân vườn thấp mấy nén nhang bên mâm cúng đã được chuẩn bị sẵn. Lúc đó ngoài trời rất lạnh, một mình ngồi giữa đất trời bao la trong không gian tĩnh mịch ở xứ người, tôi lại nhớ đến giao thừa ở quê nhà. Sài Gòn đêm giao thừa cũng yên tĩnh lắm, nhưng đó là cái khoảng lặng để chờ thời khắc thiêng liêng “bùng nổ”. Đúng giao thừa, cả nhà tề tựu, ăn mặc tươm tất. Đèn trong nhà, ngoài sân, ban công, trên ban thờ đều được bật sáng. Mọi người cùng nhau thắp nhang ở mâm cúng “tống cựu nghênh tân” ngoài sân, kế đến là ban thờ Phật, ban thờ tổ tiên. Khi ấy, giữa tiết trời Sài Gòn se lạnh, mùi thơm của trầm lan tỏa khắp nhà, xa là tiếng vọng ngân của chuông chùa, chuông nhà thờ hòa với tiếng vang rền của pháo hoa… Dường như giây phút ấy đất trời và con người hòa làm một.
Chừng ba mươi phút sau, đêm bớt tĩnh mịch hơn vì có các bác, các chị trong xóm diện những chiếc áo dài đẹp đi lễ chùa xin lộc và cầu năm mới với những ước vọng tốt đẹp. Gặp nhau ai cũng “chúc mừng năm mới” nhưng với âm điệu rất khẽ khàng như sợ làm mất đi cái không khí thiêng liêng của đêm giao thừa. Trong lúc đợi nhang tàn, ba má tôi cứ nhắc đi nhắc lại những điều nên làm và không nên làm trong ba ngày tết, dặn những món cúng ông bà vào sáng mùng Một. Một điều cũng được nhắc nữa là không được quên chuẩn bị sẵn các phong bao đỏ, trong đó phải có một vài cái đặc biệt để lì xì cho người xông đất đầu năm. Má tôi có một người bạn có hai cậu con trai, một anh tên Lợi, một tên Vàng. Năm nào bà cũng “đặt hàng” trước, sau khi có Lợi hoặc có Vàng xông đất rồi thì má tôi mới tiếp khách. Có năm chắc bận chạy show, đến xế chiều mới tới lượt nhà tôi. Người thân quen ai cũng biết, “tục lệ” này duy trì đến cả chục năm mới bỏ. 
Năm nào thì chúng ta cũng đón giao thừa với bao nhiêu nghi thức ấy, nhưng lúc nào trong lòng tôi cũng nao nao trước thời khắc chuyển giao đặc biệt đó. 
Tôi đã ngồi ngoài trời dưới cái giá rét trong đêm giao thừa ở Paris mà nhớ lại giao thừa ở Sài Gòn như vậy. Từ năm đó trở đi, dù người nhà có “dụ dỗ” cỡ nào, dù bạn bè có rủ rê ra sao, tôi vẫn bền chí với phương châm: Ba ngày tết phải ở Sài Gòn, còn quanh năm thì có thể “quẩy gói lên đường” đi đâu, đi lúc nào cũng được.
 
 
Theo TC Kiến trúc & Đời sống số 211