Cổng Ngũ Long môn uy nghi với những hình khắc rồng uốn lượn tượng trưng cho sự thịnh vượng của triều Lý. Bước qua cổng là sân đền, nơi đặt lư hương hướng vào nhà Phương Đình - điện thờ vua Lý Thái Tổ. Nơi đây quanh năm nghi ngút khói hương, thể hiện lòng thành kính của người dân đối với vị vua khai sáng triều đại
Đền Đô là một trong những công trình kiến trúc thời Lý còn lại cho đến ngày nay
Đền Đô
Tọa lạc tại phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách thủ đô Hà Nội khoảng 20km, là một trong những di tích lịch sử - văn hóa quan trọng nhất của Việt Nam. Nơi đây được xây dựng từ đầu thế kỷ 11 để thờ phụng 8 vị vua nhà Lý, những người có công khai quốc, dựng nước và giữ nước.
Đền Đô được xây dựng vào năm 1030, chỉ sau một năm vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La (nay là Hà Nội). Theo truyền thuyết, khi vua Lý Thái Tổ về thăm quê hương, người dân đã dựng một ngôi nhà lớn để nghênh tiếp. Sau khi vua băng hà, vua Lý Thái Tông đã cho sửa lại ngôi nhà này thành nơi thờ tự vua cha.
Đền Đô là một trong những công trình kiến trúc thời Lý còn lại nguyên vẹn nhất cho đến ngày nay. Nơi đây thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian. Các công trình trong đền được xây dựng bằng gỗ lim và đá ong, với nhiều chi tiết trang trí tinh xảo, thể hiện tài năng của các nghệ nhân thời Lý.

Thủy Đình nằm trên hồ bán nguyệt, giữa không gian thiên nhiên thanh bình
Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ làm bằng gốm xứ bát tràng
Đền còn lưu giữ được bia đá “Cổ Pháp Điện Tạo Bi” do Tiến sỹ Phùng Khắc Khoan soạn dựng năm Giáp Thìn (1605) để ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các vị vua triều Lý
Bước qua cổng là sân đền, nơi đặt lư hương hướng vào nhà Phương Đình - điện thờ vua Lý Thái Tổ, bên trong gian giữa là nơi thờ phụng 8 vị vua Lý (ảnh trên). Nơi đây quanh năm nghi ngút khói hương, thể hiện lòng thành kính của người dân đối với vị vua khai sáng triều đại
Mỗi năm có hàng ngàn du khách ở khắp nơi đến tham quan Đền Đô
1.000 năm làng nghề bánh phu thê Đình Bảng
Nhiều truyền thuyết ghi lại rằng khi vua Lý Anh Tông xuất chinh, hoàng hậu chính tay vào bếp làm ra món bánh gửi theo chồng đi đánh trận. Vua ăn thấy ngon, nghĩ đến tình vợ chồng đã đặt tên bánh là phu thê. Nhưng lại có người kể rằng, trong một lần hội làng ở Đình Bảng, vua Lý Thánh Tông cùng vợ là Nguyên phi Ỷ Lan về lễ ở Đền Đô đã được dân làng dâng bánh xu xuê. Sau khi thưởng thức, Đức vua và Nguyên Phi đều phải khen ngon. Người cho rằng nếu được ăn bánh thì gia đình sẽ hạnh phúc hơn
Từ đó trở đi, người dân trong làng Đình Bảng vẫn giữ được nghề làm bánh phu thê, truyền từ đời này sang đời khác cho tới nay. Chiếc bánh phu thê màu vàng, vị ngọt dịu khó quên đã tồn tại gần 1.000 năm qua, trở thành nét văn hóa đặc trưng của vùng đất Kinh Bắc. Ngay từ cổng Đền Đô du khách có thể ngửi được mùi thơm của gạo nếp, đỗ xanh trong những chiếc bánh vừa nóng hổi mới ra lò.
Vị ẩm thực đặc biệt của bánh phu thê không chỉ giúp thực khách cảm nhận được hương vị ngọt ngào, mát lành từ chiếc bánh mà còn cảm nhận được tình cảm dạt dào của con người trên quê hương Quan họ. Hiện nay, đa phần trong mỗi lễ cưới ở Bắc Ninh nhà nào cũng có bánh phu thê như một món quà linh thiêng với thông điệp “trai gái trọn tình son sắt, bền lâu”.



Bánh phu thê truyền thống được gói bằng hai thứ lá, bên trong là lớp lá dong hoặc lá chuối, bên ngoài là lớp lá dừa. Gạo để làm bánh phải là loại gạo nếp thơm ngon, vo sạch, để ráo nước và dùng cối giã, không được xay bằng máy. Tiếp đó, lọc lấy tinh bột gạo (1kg gạo nếp thường chỉ được 400g tinh bột), tinh bột đó lại đem xay thật nhuyễn rồi phơi hoặc sấy khô để qua 15 ngày mới đem ra làm bánh, nếu làm ngay bánh sẽ nát. Nhân bánh là đỗ xanh được ngâm kỹ, đãi sạch vỏ, hấp chín, nghiền mịn thắng với đường và trộn lẫn vào sợi dừa đã được nạo nhỏ. Khi ăn, bánh thường được cắt làm bốn nên trong nhân bánh thường đặt bốn hạt sen ở bốn góc
THEO KIẾN TRÚC & ĐỜI SỐNG SỐ XUÂN ẤT TỴ 2025