NHÀ XƯA

Lượt xem: 35205
4/2/2025 16:00 - Điểm đến
Tác giả: Kiến trúc & Đời sống - ĐỨC ANH

Tôi không nhớ lần đầu tôi được bố đưa về quê nội là năm tôi mấy tuổi, chỉ nhớ là rất bé. Thế nhưng những ấn tượng của những ngày thơ ấu ở quê thì tôi vẫn nhớ, vẫn còn nguyên trong ký ức. Tôi nhớ cái cổng nhỏ với hàng rào dâm bụt, nhớ ngôi nhà mái ngói, khoảng sân rộng với hai cây cau cao vút, căn bếp luôn thơm nồng khói lửa…; nhớ ông tôi rất nghiêm, bà tôi rất hiền và cô tôi (tất nhiên khi đó chưa lấy chồng) thì rất tuyệt vời!

 
“Tôi nhớ ngôi nhà mái ngói, khoảng sân rộng với hai cây cau cao vút, căn bếp luôn thơm nồng khói lửa...”

Quê tôi, chính xác là làng tôi nằm bên quốc lộ bắc – nam, cách Hà Nội 42 cây số tính từ km số 0 ở Bờ Hồ (mà bây giờ người ta vẫn đang tranh luận về về vị trí chuẩn của điểm số 0 này). Đó là một khoảng cách quá ngắn so với thời bây giờ; nhưng trong con mắt trẻ thơ của tôi ngày đó, và vào thời kỳ còn khó khăn nhiều về phương tiện giao thông thì về quê là một hành trình dài đáng kể, và hơi… sợ - bởi tôi bị say xe. Mỗi lần về quê hồi đó là một cuộc “hành quân” khá gian nan và vất vả. Bình thường, mấy bố con hay đi “xe tuyến” của cơ quan bố - là xe đưa cán bộ nội trú về nhà cuối tuần - đi thứ 7, về chủ nhật. Chúng tôi thường là những người xuống xe đầu tiên trên xe tuyến quốc lộ 1A, với khoảng cách (từ cơ quan) xấp xỉ 40km. Mỗi khi có việc, hoặc muốn ở lại quê lâu hơn, đương nhiên phải đi xe khách ở ngoài. Quãng thời gian êm đềm đó cứ như thế, như thế cho tới khi tôi học hết cấp 2. Bao nhiêu năm, ngôi nhà vẫn vậy, bình yên, dung dị và hào phóng đón tôi trở về. Có những mùa hè (hồi đó học sinh nghỉ hè 3 tháng) chúng tôi về quê tới một vài tuần. Phải nói thêm rằng: Tôi không được sinh ra ở đây, tôi cũng không sống ở đây. Bố mẹ tôi đi học rồi thoát ly, sinh con ở thành phố. Nói chính xác thì đó là ngôi nhà của ông bà nội tôi. Với chị em chúng tôi, về nơi đó - nói và hiểu một cách đơn giản là về quê. 
Lên cấp 3, tôi thường về quê một mình bằng những chuyến tàu chợ. Mọi việc đi lại đã đơn giản hơn nhiều. Ông tôi đã mất, rồi cô tôi muộn màng mãi cũng đã lấy chồng làng bên – có thể tranh thủ chạy qua chạy lại. Dẫu vậy thì nhà vẫn cứ vắng vẻ, có một mình bà tôi. Biết vậy! Bố tôi thì bận việc; tôi thì cũng bận học, và tuổi trẻ mải chơi… Tất nhiên khi đó, dù không còn là đứa trẻ nữa thì tôi về quê vẫn mang tâm thế của kẻ đi chơi, đi nghỉ, đâu phải băn khoăn nhiều chuyện người lớn!?
 
“Tôi nhớ cổng nhà, cái cổng ấy đẹp đến nao lòng với những đường nét, với rêu phong, với những mảng tường gạch cũ. Ba chữ Hán trên trán cổng ghi Đồng Gia Cát nghĩa là cả nhà cùng may mắn - một thông điệp gỉản dị và ý nghĩa. Nay thì mảng tường rào cũ liền với cái cổng xen hàng dâm bụt giờ cũng bị xây lại, trát lại phẳng phiu, thẳng tắp...”

Cuộc đời có những éo le, mỗi con người là một số phận. Lá xanh rụng trước lá vàng. Thật ra đó không phải là điều gì hiếm gặp hay quá ghê gớm, nhưng vẫn là xót xa. Tôi mất thăng bằng một thời gian dài, và tôi hiểu rằng sức chịu đựng của bà tôi đáng khâm phục đến mức nào. Ở thời điểm đó, tôi là sinh viên những năm đầu, chưa đủ là một người chín chắn và từng trải đế gánh một trách nhiệm như thế. Và sau đó, về quê với tôi không còn là những chuyến đi nghỉ, đi chơi nữa. Tôi thay bố tôi làm những phận sự mà tôi biết mãi mãi chẳng thể tròn. Cuộc sống thì càng ngày càng nhanh hơn, hối hả hơn; tôi cũng bận hơn. Căn nhà vắng hơn, cũ hơn, và bà tôi yếu hơn. Mỗi khi về nhà, nhìn bóng bà lặng im và nhỏ bé giữa căn nhà trống vắng, thấy nghẹn lòng… Nhưng có lẽ những lần tôi về hồi đó là những khoảng thời gian rất đẹp của hai bà cháu. Ngoài những lần có việc trong năm, thì như lời hẹn, tôi có mặt ở nhà vào chiều 29 hoặc sáng 30 Tết, gần 10 năm như vậy. Cô tôi giúp bà chuẩn bị mọi việc, nhưng có một việc bà luôn chờ tôi cùng làm, đó là lau dọn bàn thờ tất niên. Từ những năm tháng ấy, ngôi nhà đã trở nên thiêng liêng với tôi. Đó không chỉ là yếu tố tinh thần, mà với con mắt của người làm nghề, tôi hiểu rằng đây là ngôi nhà đẹp nhất với một cấu trúc chuẩn mực còn lại ở làng, và sẽ là ngôi nhà cuối cùng. Trong đó có bộ bàn thờ cùng đồ thờ cổ và đẹp nhất làng, chính người làng nói vậy. Làng tôi, như bao nơi khác, đô thị hóa đã làm cho tất cả nham nhở, vụn nát. Những ngôi nhà cột kèo mái ngói biến mất với một tốc độ nhanh khủng khiếp, những mảnh vườn cũng như vậy. Những đường nét kiến trúc tinh tế của ông cha đang lùi vào dĩ vãng. Ngôi nhà của bà tôi, dẫu không phải là kiệt tác thì vẫn cứ là một ngôi nhà đẹp. Cụ tôi xây ngôi nhà năm 1945, cái năm diễn ra nạn đói khủng khiếp. Và cũng vì việc này, cụ tôi bị quy là địa chủ, sau sửa sai thành thành phần trung nông, nhưng điều đó cũng để lại nhiều hệ lụy. Bây giờ trên vòm cổng vẫn còn chữ “1945” đắp nổi… 
Rồi cô chú tôi chuyển về ở cùng để tiện chăm sóc bà. Tôi yên tâm và cảm thấy nhẹ lòng hơn. Mỗi khi về cũng vui hơn, không còn vắng vẻ như trước nữa. Nhưng ngôi nhà cũ dần dần không còn đáp ứng được những nhu cầu mới của cuộc sống, và đã có những đổi thay. Nếp nhà ngang xưa là nhà bếp – cách nhà chính một khoảng sân có giàn mướp đã bị phá đi, cô chú tôi xây thay thế vào đó một gian nhà mái ngói cao và rộng hơn để cô tôi dạy học. Chái nhà chính phía bên ấy trở thành nhà bếp kiểu mới – đun bếp gas, nối liền với nhà để xe và khu vệ sinh khép kín - tất nhiên có đầy đủ thiết bị hiện đại. Điều đó tốt hơn cho cuộc sống, và tốt hơn cho sinh hoạt của bà tôi, vì bà yếu rồi. Nhưng tôi vẫn cứ tiếc. Tôi tiếc gian bếp với vách đất xiêu xiêu, cùng những kèo, xà tre ám khói; và tiếc bếp lửa bập bùng bao nhiêu kỷ niệm với những câu chuyện của bà… Tôi tiếc tòa nhà chính 3 gian hai chái không còn nguyên vẹn - độc lập với 2 ô cửa sổ ở chái nhà nhìn ra sân; nay vị trí đó ở chái phía trong là cửa đi xuống nhà xe và nhà vệ sinh… Lối vào từ cổng và sân cũng được lát lại để tiện đi xe máy. Mỗi lần sửa cái gì, cô chú đều gọi điện hỏi ý kiến tôi. Tôi buồn nhưng chẳng biết làm thế nào, đành nói với cô chú rằng xây cất thêm cái gì cũng được, nhưng cố gắng đừng làm sai lệch gì kiến trúc nhà chính và cái cổng. 
 

Lại nói về cái cổng. Cái cổng ấy đẹp đến nao lòng với những đường nét, với rêu phong, với những mảng tường gạch cũ. Biết bao lần tôi ngẩn ngơ ngắm và xoay tới xoay lui cùng chiếc máy ảnh. Ba chữ Hán trên trán cổng, tôi nhờ anh bạn chuyên ngành Hán - Nôm đọc hộ, là “Đồng Gia Cát”; nghĩa là cả nhà cùng may mắn - một thông điệp giản dị và ý nghĩa. Từ khi còn bé tí về quê, tôi vẫn biết và vẫn nhớ cổng có hai cánh bằng tre, đóng bằng cách… buộc dây và tối đi ngủ “khóa” bằng một đòn tre phía trong gác ngang vào tường. Mấy chục năm, cánh cổng tre cũng xập xệ dần. Rồi một ngày cô tôi gọi điện bảo chuẩn bị thay cánh cổng sắt, vì cánh cổng tre hỏng rồi, cùng với việc trật tự an ninh ở làng bây giờ phức tạp, không như xưa nữa; về nhanh mà chụp ảnh. Tôi không thể cản, chỉ tiếc, rồi thu xếp về, cẩn thận ghi chép những hình ảnh cuối cùng. Sau đó, mảng tường rào cũ liền với cổng vỡ một mảng từ ngày xưa, xen với dâm bụt giờ cũng “bị” xây lại, trát lại phẳng phiu, thẳng tắp…
Bà tôi mỗi ngày mỗi yếu; cũng phải thôi, tuổi cao rồi. Nhiều lần bà nói chuyện với tôi về ngôi nhà, về “quyền lợi” cũng như phận sự, trách nhiệm của tôi. Những lần ấy tôi đều trốn tránh, lảng đi. Tôi bảo: Bà còn sống lâu, lo làm gì! Đúng là tôi sợ, sợ cái ngày ấy sẽ đến. Tôi muốn mãi mãi đây là ngôi nhà của bà, ngôi nhà luôn có bà và là nơi trở về của chúng tôi. Nhưng rồi cũng chẳng lần lữa được mãi, sau một trận ốm nặng, bà không muốn để lâu tình trạng này hơn nữa… Thế rồi bà, cô chú, tôi… tất cả ứa nước mắt ký vào bản di chúc của bà - bản di chúc mà tôi chấp bút (vì bà không biết chữ) xác nhận quyền thừa kế cho tôi; và tất nhiên cuối cùng là xác nhận của chính quyền. Từ đó, bà thanh thản lắm!
Rồi cái ngày ấy cũng đến, như lẽ thường ở đời. Tôi đứng ở vị trí của bố tôi, thay cho bố tôi. Bà đi rồi, căn nhà hoang vắng trống trải. Tôi nhìn lên bàn thờ, nhìn lên mái nhà, nhìn ra cổng… tất cả ký ức tuổi thơ, những năm tháng trôi qua như một cuốn phim quay chậm. Tôi chưa thể quen với ý nghĩ đây là ngôi nhà của tôi, là mảnh đất của tôi theo cách sở hữu. Đôi khi tôi cảm thấy quá sức của mình…
Một năm vài ba bận tôi lại trở về, trở về căn nhà ấy. Đó không phải là nơi tôi sinh ra và lớn lên, nhưng vẫn và mãi mãi là nơi trở về của tôi. Mỗi lần về lại thảng thốt, buồn và xót xa vì những viên ngói vỡ, những cột kèo, khung cửa cứ cũ dần, mọt dần, yếu dần… Cuộc sống nơi thành phố và công việc thì cứ cuốn đi, mải miết, mải miết. 
Tôi cứ đi về phía trước. Căn nhà cũ hơn và như đang lùi lại phía sau… Nhà xưa! Tôi gọi nhà xưa - bởi lẽ khi tôi trở về, tôi được chậm lại và lùi lại, để chạm vào quá khứ - không chỉ của riêng tôi. Ở đó tôi nhìn thấy hình bóng cụ tôi, ông bà tôi, bố tôi; thấy ngọn gió quê nhà thổi mãi!
 
"Tôi tiếc gian bếp với vách đất xiêu xiêu, cùng những kèo, xà tre ám khói; và tiếc bếp lửa bập bùng bao nhiêu kỷ niệm với những câu chuyện của bà”
 
THEO KIẾN TRÚC & ĐỜI SỐNG SỐ XUÂN ẤT TỴ 2025